- 31/03/2021
- Posted by: bientapvien
- Category: Tin tức
Theo nghiên cứu mới được công bố trên Tạp chí của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, những phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh tiêu thụ nhiều các sản phẩm protein từ thực vật sẽ có nguy cơ tử vong sớm – nguy cơ các bệnh tim mạch và mất trí nhớ thấp hơn so với những phụ nữ tiêu thụ ít các sản phẩm protein thực vật.
Nghiên cứu hiện tại
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối liên quan giữa chế độ ăn nhiều thịt đỏ và nguy cơ mắc bệnh tim mạch, tuy nhiên dữ liệu và các bằng chứng của những nghiên cứu này còn hạn chế và không có kết luận về các loại protein cụ thể.
Các nhà nghiên cứu lưu ý mức độ và loại protein mà những phụ nữ tham gia đã tiêu thụ, chia họ thành các nhóm để so sánh ai ăn ít nhất và ai ăn nhiều nhất mỗi loại protein. Tỷ lệ phần trăm trung bình của tổng năng lượng từ protein động vật trong dân số này là 7,5% ở nhóm thấp nhất và 16,0% ở nhóm cao nhất. Tỷ lệ phần trăm trung bình của tổng năng lượng từ protein thực vật trong nhóm đối tượng này là 3,5% ở nhóm thấp nhất và 6,8% ở nhóm cao nhất.
Một số các hiện chính có thể kể đến bao gồm:
- So với những phụ nữ sau mãn kinh ăn ít protein thực vật nhất, những người ăn nhiều protein thực vật nhất có nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn 9%, nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch thấp hơn 12% và nguy cơ tử vong liên quan đến sa sút trí tuệ thấp hơn 21%.
- Tiêu thụ nhiều thịt đỏ đã qua chế biến có liên quan đến nguy cơ tử vong do sa sút trí tuệ cao hơn 20%.
- Tiêu thụ nhiều thịt, trứng và các sản phẩm từ sữa chưa qua chế biến có liên quan đến nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch cao hơn lần lượt 12%, 24% và 11%.
- Ăn nhiều trứng hơn có liên quan đến nguy cơ tử vong do ung thư cao hơn 10%.
- Tuy nhiên, tiêu thụ nhiều trứng hơn có liên quan đến nguy cơ tử vong do mất trí nhớ thấp hơn 14%, trong khi tiêu thụ thịt gia cầm cao hơn lại có liên quan đến nguy cơ tử vong do mất trí nhớ thấp hơn 15%.
Một điều đặc biệt mà các tác giả cho biết là không rõ trong nghiên cứu tại sao trứng có liên quan đến nguy cơ tử vong do tim mạch và ung thư cao hơn. Nó có thể liên quan đến cách mọi người nấu và ăn trứng. Trứng có thể được luộc, đánh trứng, hấp, nướng, chiên, xé sợi hoặc kết hợp với các loại thực phẩm khác. Ở Mỹ, mọi người thường ăn trứng ở dạng trứng chiên và thường là với các thực phẩm khác như thịt xông khói. Mặc dù nghiên cứu đã tính toán kỹ lưỡng nhiều yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn trong phân tích, nhưng vẫn khó có thể hoàn toàn xác định được liệu trứng – hay các thực phẩm khác thường được ăn kèm với trứng hoặc thậm chí là không – có liên quan tới các yếu tố chế độ ăn uống và có thể dẫn đến tăng nguy cơ tử vong do tim mạch và ung thư.
Phân tích cũng cho thấy rằng những phụ nữ ăn nhiều protein động vật nhất như thịt và sữa có nhiều khả năng là người da trắng, có trình độ học vấn và thu nhập cao hơn, và họ có nhiều khả năng đã từng hút thuốc, uống nhiều rượu hơn và ít hoạt động thể chất hơn. Hơn nữa, những phụ nữ này có nhiều khả năng mắc bệnh tiểu đường type-2 khi bắt đầu tham gia nghiên cứu, có tiền sử gia đình bị đau tim và có chỉ số khối cơ thể cao hơn – và tất cả các yếu tố này hợp thành nguy cơ của bệnh tim mạch.
Lựa chọn chế độ ăn hợp lý
Theo các chuyên gia, phát hiện này ủng hộ sự cần thiết phải xem xét các nguồn protein trong chế độ ăn uống trong các hướng dẫn chế độ ăn uống ở hiện tại và tương lai. Các hướng dẫn về chế độ ăn uống hiện tại chủ yếu tập trung vào tổng lượng protein, và các phát hiện này cho thấy chúng có thể có những ảnh hưởng sức khỏe khác nhau liên quan đến các loại thực phẩm có bản chất protein khác nhau.
Những khuyến nghị về nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và tăng cholesterol trong chế độ ăn năm 2020 của Mỹ cũng lưu ý rằng do hàm lượng cholesterol trong lòng đỏ trứng tương đối cao, nên hạn chế ăn quá nhiều trứng. Những người khỏe mạnh có thể ăn tối đa một quả trứng hoặc sản phẩm từ trứng có khối lượng tương đương mỗi ngày.
Tuy nhiên, hiện tại nghiên cứu này vẫn còn một số hạn chế bao gồm việc mang tính quan sát, dựa trên dữ liệu tự báo cáo khi bắt đầu nghiên cứu và thiếu dữ liệu về các cách nấu chín protein. Ngoài ra, những phát hiện này có thể không áp dụng cho nhóm phụ nữ hoặc nam giới trẻ tuổi hơn.