Tăng số lượng hồng cầu trong máu có nguy hiểm không?

Tăng số lượng hồng cầu trong máu có thể đến từ rất nhiều nguyên nhân. Tình trạng này thường là dấu hiệu của một bệnh lý tiềm ẩn nào đó gây ra, và có thể mang đến những tác động tiêu cực tới sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu xem vì sao hiện tượng này xảy ra và có cách nào để phòng tránh hay không.

Tăng hồng cầu trong máu là gì?

Số lượng hồng cầu cao trong máu là sự gia tăng các tế bào hồng cầu vận chuyển oxy trong máu. Các tế bào hồng cầu vận chuyển oxy từ phổi đến các mô khắp cơ thể. Số lượng hồng cầu cao có thể là do tình trạng hạn chế cung cấp oxy của cơ thể hoặc tình trạng trực tiếp làm tăng sản xuất hồng cầu.

Định nghĩa về số lượng hồng cầu cao trong máu có thể khác nhau giữa các cơ sở y tế. Theo phạm vi bình thường ở người lớn, mức hồng cầu bình thường có thể trong khoảng từ 4,35 – 5,65 triệu tế bào/microlit (mcL) máu đối với nam giới, và 3,92 – 5,13 triệu tế bào/mcL máu đối với nữ giới. Ở trẻ em, ngưỡng số lượng hồng cầu cao thay đổi theo từng mức tuổi và giới tính.

Nguyên nhân gây tăng hồng cầu trong máu

Số lượng hồng cầu cao có thể do nồng độ oxy trong máu thấp, bệnh thận hoặc các vấn đề khác.

Lượng oxy máu thấp

Cơ thể có thể tăng sản xuất hồng cầu để bù đắp cho bất kỳ tình trạng nào dẫn đến mức oxy máu thấp, bao gồm:

  • Bệnh tim (chẳng hạn như bệnh tim bẩm sinh ở người lớn)
  • Suy tim
  • Một tình trạng xuất hiện khi sinh làm giảm khả năng vận chuyển oxy của các tế bào hồng cầu (bệnh huyết sắc tố)
  • Lên độ cao khiến oxy loãng
  • Đợt cấp COPD (bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính) với các triệu chứng trở nên tồi tệ hơn
  • Xơ phổi (phổi có sẹo và bị tổn thương)
  • Các bệnh phổi khác
  • Chứng ngưng thở lúc ngủ
  • Phụ thuộc nicotine (hút thuốc)

Sử dụng thuốc

Một số loại thuốc có thể kích thích sản xuất các tế bào hồng cầu bao gồm:

  • Các thuốc steroid đồng hóa
  • Truyền máu tăng cường máu
  • Tiêm protein (erythropoietin) giúp tăng cường sản sinh hồng cầu

Tăng mật độ hồng cầu do giảm thể tích máu

Tình trạng mất nước làm cô đặc máu. Nếu thành phần chất lỏng của máu (huyết tương) giảm, ví dụ như trong tình trạng mất nước, số lượng hồng cầu sẽ tăng lên trên 1 đơn vị thể tích nhất định. Điều này là do các tế bào hồng cầu trở nên cô đặc hơn. Khi xét nghiệm, trong 1 lượng máu nhất định sẽ có số lượng hồng cầu tăng lên nhưng thực tế, số lượng tế bào vẫn giữ nguyên.

Bệnh thận

Hiếm khi gặp phải. Trong một số bệnh ung thư thận và đôi khi sau khi ghép thận, thận có thể sản xuất quá nhiều erythropoietin. Điều này giúp tăng cường sản xuất hồng cầu của tủy xương.

Sản xuất quá mức tủy xương

  • Bệnh đa hồng cầu
  • Các rối loạn tăng sinh tủy khác

Các triệu chứng và tổn thương như thế nào?

Số lượng hồng cầu trong máu cao thường được tìm thấy khi bác sĩ yêu cầu các xét nghiệm để giúp chẩn đoán tình trạng bệnh lý nào đó. Kết quả từ xét nghiệm máu có thể chỉ ra nguyên nhân gây bệnh, hoặc bác sĩ có thể đề nghị các xét nghiệm bổ sung để theo dõi tình trạng bệnh hiện mắc.

Tình trạng gia tăng số lượng hồng cầu có thể khiến máu trở nên cô đặc, không chỉ làm tăng nguy cơ gây nghẽn mạch máu do hình thành huyết khối mà còn dẫn đến các vấn đề như lách to, tổn thương gan,…

Các triệu chứng thường gặp có thể bao gồm:

  • Đau đầu
  • Chóng mặt
  • Khó thở
  • Chảy máu cam
  • Tăng huyết áp
  • Suy giảm thị lựuc
  • Ngứa
Điều trị và phòng ngừa tăng hồng cầu

Việc điều trị tương đối quan trọng, giúp giảm thiểu rủi ro của các biến chứng và giảm các triệu chứng khó chịu. Một số biện pháp bao gồm:

  • Trích máu tĩnh mạch – thủ thuật giúp làm giảm số lượng tế bào hồng cầu.
  • Aspirin – ngăn ngừa hình thành cục máu đông gây tắc nghẽn mạch máu
  • Các thuốc ức chế tăng sinh hồng cầu quá mức

Tình trạng tăng hồng cầu có nguyên nhân đến từ các vấn đề di truyền thường không thể phòng ngừa được. Tuy nhiên, khi tình trạng này do một vấn đề cụ thể gia tăng đột ngột, chúng ta có thể phòng tránh bằng cách thay đổi lối sống, hành vi, duy trì một chế độ sinh hoạt tập luyện và ăn uống điều độ, lành mạnh để giảm thiểu tối đa nguy cơ mắc phải. Một số thói quen xấu cần được loại bỏ như hút thuốc, sử dụng rượu bia… đồng thời tăng cường vận động, và đặc biệt là sử dụng các thuốc đúng theo chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ chính là những yếu tố quan trọng nhất.